Đền Đô - Công trình kiến trúc tinh xảo chứa đựng giá trị hoa của dân tộc 第1张 Khu vực sân rồng để nhân dân đến lễ đền Đô. (Ảnh: Thanh Thương/TTXVN) Zalo Facebook Twitter Lưu bài viết Bản in Copy link

Nằm sát ngay Thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh là vùng đất giàu truyền thống văn hóa lịch sử, với hơn 1.200 di tích lịch sử trong đó có các di tích cấp quốc gia nổi tiếng thu hút nhiều du khách đến tham quan như chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô, chùa Phật Tích…

Đền Đô hay Đền Lý Bát Đế - nơi ghi dấu 214 năm trị vì của 8 vị vua nhà Lý, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng hàng trăm năm tuổi của vùng đất này.

Sau nhiều lần bị chiến tranh tàn phá và được trùng tu, đền Đô vẫn giữ được lối kiến trúc nguyên bản, trở thành niềm tự hào của người dân xứ Kinh Bắc và là địa điểm tham quan thú hút du khách trong và ngoài nước.

Đến với đền Đô bạn sẽ được chiêm ngưỡng công trình kiến trúc tinh xảo, chứa đựng những giá trị tinh hoa của dân tộc.

1. Đền Đô được xây dựng từ bao giờ?

Đền Đô được xây dựng từ năm 1030 của thế kỷ thứ 11. Ngôi đền tọa lạc tại phía đông nam hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp thuộc làng Đình Bảng lúc bấy giờ. Ngày nay đền Đô nằm ở phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Tổng thể không gian của đền Đô có diện tích 31.250m2, được chia thành hai khu vực chính là nội thành và ngoại thành với hơn 20 hạng mục công trình. Trong đó, Cổ Pháp điện rộng 180m2 với 7 gian là nơi thờ phụng 8 vị vua thời nhà Lý bao gồm Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thần Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Nhân Tông, Lý Huệ Tông và Lý Anh Tông.

Bên cạnh đó, khu ngoại thất của đền Đô còn có điện thờ Lý Chiêu Hoàng cùng một số vị quan văn, võ thời nhà Lý như Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành, Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiếu…

 Đền Đô - Công trình kiến trúc tinh xảo chứa đựng giá trị hoa của dân tộc 第2张 Trong đền Đô ghi chép lại mốc thời gian các đời vua dưới triều Lý. (Ảnh: Thanh Thương/TTXVN)

Theo nội dung trên bia trùng tu đền Đô, Đình Bảng - quê hương phát tích nhà Lý, ban đầu có tên là Diên Uẩn. Từ giữa thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ XIII đổi là hương Cổ Pháp thuộc châu Cổ Pháp, sau đó mới được đặt là Đình Bảng.

Đền Đô được xây dựng trên đất quê Lý Công Uẩn. Năm 1019, khi Lý Thái Tổ lên ngôi được 10 năm, ông về quê lập một thái miếu để thờ tổ nội mình ở đây. Lúc đó, vua đã chọn một khu đất để làm nơi chôn cất sau khi băng hà, cách cửa đền Đô hiện tại khoảng một km, đặt tên là Cấm Địa Sơn Lăng. Năm 1028 Lý Thái Tổ băng hà, được an táng tại quê nhà theo di nguyện. Sau này, các vị vua nhà Lý đều được đưa về chôn cất tại đây.

Năm 1030, vua Lý Thái Tông cho xây dựng đền Đô làm nơi thờ vua cha. Từ đó, đền trở thành nơi thờ tự các vị vua nhà Lý.